Tháng 8/2025, giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam đã ghi nhận tín hiệu tích cực khi đạt 1.867 USD/tấn, tăng 5,9% so với tháng 7/2025.
Dù vậy, mức giá này vẫn thấp hơn 0,9% so với cùng kỳ năm 2024, phản ánh đà phục hồi còn khá chậm.
Theo số liệu thống kê của Cục Hải quan, trong tháng 8/2025, Việt Nam xuất khẩu được 13,4 nghìn tấn chè, trị giá 25,01 triệu USD. So với tháng trước, lượng xuất khẩu giảm 2,4% nhưng trị giá tăng 3,3% nhờ giá bình quân cải thiện.
Tuy nhiên, so với tháng 8/2024, kim ngạch vẫn giảm mạnh 13,8% về lượng và giảm 14,6% về trị giá. Đây đã là tháng thứ ba liên tiếp ngành chè ghi nhận mức sụt giảm so với cùng kỳ năm trước, cho thấy áp lực lớn trong việc duy trì thị trường.
Tính chung 8 tháng năm 2025, xuất khẩu chè đạt 85 nghìn tấn, trị giá 145,67 triệu USD, giảm 9,6% về lượng và giảm 10,4% về trị giá so với cùng kỳ 2024. Giá xuất khẩu bình quân trong 8 tháng ở mức 1.714 USD/tấn, giảm 0,9% so với cùng kỳ, tiếp tục phản ánh tình trạng ngành chè chưa tìm được động lực bứt phá.
Trong cơ cấu thị trường, Pakistan tiếp tục giữ vị trí số một khi chiếm tới 45,63% về lượng và 50,31% về trị giá xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng 8/2025. Cụ thể, thị trường này nhập khẩu hơn 6,11 nghìn tấn, trị giá 12,58 triệu USD, tăng 3,6% về lượng và tăng 11% về trị giá so với tháng 7/2025. Giá bình quân đạt 2.058 USD/tấn, cao hơn 7,1% so với tháng trước. Tuy nhiên, nếu so với cùng kỳ năm 2024, lượng giảm 15,1% và trị giá giảm 17,9%, giá bình quân cũng thấp hơn 3,3%.
Lũy kế 8 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu chè sang Pakistan đạt 30,04 nghìn tấn, trị giá 58,35 triệu USD, chỉ tăng nhẹ 0,6% về lượng nhưng giảm tới 6,3% về trị giá. Điều này cho thấy dù Pakistan vẫn là “bệ đỡ” của ngành chè Việt Nam, sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường khiến xuất khẩu chưa thực sự ổn định và dễ chịu tác động khi nhu cầu giảm hoặc giá thay đổi.
Ở vị trí thứ hai, Đài Loan (Trung Quốc) nhập khẩu 1,46 nghìn tấn chè trong tháng 8/2025 với trị giá 2,97 triệu USD. So với tháng trước, lượng giảm 2,6% và trị giá giảm 4,1%. Nhưng so với cùng kỳ năm 2024, lượng giảm 10,6% song trị giá lại tăng 4,5%, cho thấy nhu cầu chuyển sang phân khúc có giá trị cao hơn. Giá bình quân đạt 2.033 USD/tấn, thấp hơn 1,5% so với tháng 7/2025 nhưng cao hơn tới 17% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong 8 tháng đầu năm, xuất khẩu chè sang Đài Loan đạt 9,18 nghìn tấn, trị giá 17,04 triệu USD, giảm 6,6% về lượng nhưng tăng 1,6% về trị giá. Đây là tín hiệu tích cực, phản ánh khả năng nâng cao chất lượng và giá trị của chè Việt Nam đã bước đầu phát huy ở thị trường này.
Cơ hội mở rộng tại nhiều thị trường mới nổi
Ngoài hai thị trường lớn trên, tháng 8/2025 cũng ghi nhận sự khởi sắc tại một số thị trường mới nổi. So với cùng kỳ 2024, xuất khẩu chè sang Trung Quốc tăng 13,9%; Iraq tăng 54,8%; Ấn Độ tăng 15,2%; Philippines tăng tới 81,1%; Ba Lan tăng đột biến 175%. Đây là những tín hiệu khả quan, cho thấy nỗ lực mở rộng thị trường đang mang lại kết quả.
Tuy nhiên, xuất khẩu vẫn giảm ở nhiều thị trường khác như: Malaysia, Indonesia, Nga, Hoa Kỳ, Ả rập Xê út. Điều này phản ánh tính chất phân hóa của nhu cầu toàn cầu đối với mặt hàng chè.
Tính chung 8 tháng, ngoài Pakistan, xuất khẩu sang Malaysia, Iraq, Ấn Độ, Philippines, Kazakhstan, Ả rập Xê út, Thổ Nhĩ Kỳ… đều duy trì tăng trưởng tốt. Ngược lại, thị trường Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc, Indonesia, Nga, Hoa Kỳ, Ba Lan, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất lại giảm. Sự trái chiều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về chiến lược đa dạng hóa, tránh phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống.
Có thể thấy, sự phục hồi nhẹ về giá xuất khẩu trong tháng 8/2025 là tín hiệu đáng khích lệ, nhưng chưa đủ để khẳng định sự khởi sắc thực sự của ngành chè. Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) nhận định, triển vọng xuất khẩu chè những tháng cuối năm 2025 sẽ được duy trì ổn định, nhờ nhu cầu tiêu thụ chè thường tăng vào dịp cuối năm. Tuy vậy, đà phục hồi khó bứt phá mạnh bởi Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào thị trường Pakistan, trong khi một số thị trường trọng điểm tiếp tục suy giảm.
Về dài hạn, ngành chè cần chú trọng nhiều hơn vào nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu quốc gia, tăng khả năng truy xuất nguồn gốc và an toàn thực phẩm. Song song đó, việc đẩy mạnh khai thác các thị trường mới nổi tại Trung Đông, Nam Á và châu Âu có thể giúp giảm rủi ro, tạo dư địa tăng trưởng bền vững.